Skip navigation

Category Archives: NHẠC

Ngã túy dục miên quân thả khứ

Tôi và chim gáy, hình như có một chút duyên.

Ở ba nơi thân thuộc nhất của tôi: nhà tôi, nhà tôi, và nơi tôi làm việc, chim gáy đều hiện diện.

Thuở sinh tiền, ông già tôi có cái thú nuôi chim. Nuôi cho vui, chứ chẳng phải là “chơi chim” gì hết cả. Ông nuôi lung tung, từ vẹt đến sáo, từ họa mi đến khướu. Ông mất, chim cũng chết dần. Con cuối cùng còn lại chính là chim gáy.

Một trong những ấn tượng đầu tiên của tôi khi đến Melb, một ngày mùa đông tháng Sáu chín năm sau, chính là chim gáy.

Người xưa bảo trong tứ đại hỷ thì thiên lý tha hương ngộ cố tri đứng thứ hai. So với hòa thượng động phòng hoa chúc dạ còn cao hơn một bậc. Ở Melb, tôi không có cố nhân theo đúng nghĩa của từ này. Chỉ có một tiếng gù quen, vào một buổi mai lạnh tái tê trên đường Brunswick, là làm lòng tôi thắt lại.

Hôm qua nhìn xuống vườn Hồng, tôi thấy một con chim gáy đang tha thẩn bới đất trong khuôn viên tòa nhà tôi làm việc. Tôi vẫn biết nơi này có chim gáy, nhưng hiếm khi nhìn thấy chúng. Nghe thấy lại càng không. Cái thanh tĩnh ngoại ô ở Melb cho phép tôi đắm chìm trong âm thanh điềm đạm ấy. Còn ở đây, tiếng gù chim gáy bị bóp nghẹt trong tiếng gầm gào xe cộ, trong tiếng còi bất lực và vô học của những kẻ đi đường.

Tôi vẫn gọi chim gáy là dotted dove. Tôi thích cái âm điệu luyến láy dịu dàng của cái tên này. Polka dots and moonbeams. Ở chim gáy có vẻ gì đó luôn lãnh đạm, trầm tĩnh, lánh đời và ghét tục. Con chim gáy tôi thấy chiều qua chẳng hạn. Nó hẳn chẳng hề bận tâm đến những đôi trai gái ngày ngày dắt díu nhau ra vườn Hồng chụp ảnh, những chuẩn bị hoành tráng cho cái gọi là Đại lễ Nghìn năm, những version khác nhau của một bài phát biểu. Giang hồ đa phong vũ, lãnh ái tự khả tri, mười chữ này ngắn ngủi làm sao. Nhưng ngoài chim gáy ra, thử hỏi có mấy ai làm được?

Dinh Độc lập có một mái lương đình nằm khuất dưới bóng cây. Góc đường Nguyễn Thị Minh Khai và Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Mỗi lần đi qua đó, tôi thường tự nhủ, giá mà có thể ngồi đây, lặng lẽ nhìn ra dòng người xe qua lại trên đường, và nhâm nhi một chút grappa. Giấc mộng ỷ lâu, dường như luôn sớm chiều lẩn quất đâu đây.

Thơ của đời xưa
và mộng của đời nay
tưởng khác đời mà chung một dạ.

Nghe Hodges và Gonsalves. Tàn tinh kỷ điểm nhạn hoành tái. Trường địch nhất thanh nhân ỷ lâu.

Bốn giờ sáng. JD Single Barrel cay cay trên vòm môi và ngất ngây ngoài cánh mũi. Giật mình nhận ra, đêm nay đã là đêm bán kết. Sophie hát September Tears. There ain’t so many people, that really could make you cry. And there ain’t too many things, that really reach you inside. When it happens, it feels like we all wanna die.

Lần đầu tôi nghe Sophie, là một đêm mùa đông tháng sáu trong căn phòng nhỏ, rã rời và uể oải sau một ngày dài kiệt sức. Là nàng đã nâng đỡ tôi trong suốt hai tuần đằng đẵng ấy.

Giọng nàng trong. Không phải cái trong của sương mai, ngắn ngủi và thơ ngây như tuổi đôi mươi của những nàng thiếu nữ. Cái trong ấy, chỉ có thể là của một đầm nước thẳm sâu, giấu mình ẩn khuất trong lòng núi. Của một người con gái tuổi ba mươi, đã yêu, từng thương, còn đau, và vẫn nhớ. Fell in love with my lover. Grand as loving. Lost in love. All about a love affair. Câu chuyện của nàng, chỉ giản đơn như thế. Memories, memories, don’t change to blue. Ca từ nàng viết, cũng đơn giản đến vô cùng như thế. Nhưng nỗi niềm xao xác của lòng nàng, đã cơ hồ thấm đẫm mỗi lời ca. I ain’t got the heart babe. I ain’t got the heart.